Từ trước đến nay, khi nhắc đến bồ kết, người ta thường chỉ nhắc đến câu “Bồ kết sạch gàu, mần chầu tốt tóc”. Tuy nhiên, còn nhiều công dụng độc đáo của bồ kết mà chúng ta chưa quan tâm đến…
Cây bồ kết cho những vị thuốc sau:
– Quả bồ kết (tạo giác – Fructus Gleditschiae), là quả bồ kết chín khô. Khi dùng phải bỏ hạt, dùng sống hoặc tẩm nước cho mềm, sấy khô. Có khi đốt thành than, tán bột.
– Hạt bồ kết (tạo giác tử – Semen Gleditschiae), là hạt lấy ở quả bồ kết chín đã phơi hay sấy khô.
– Gai bồ kết (tạo thích, tạo giác thích – Spina Gleditschiae), là gai hái ở thân cây bồ kết, đem về phơi hay sấy khô hoặc thái mỏng rồi phơi hay sấy khô. Chứa các hoạt chất kháng khuẩn và nấm. Nước sắc gai bồ kết có tác dụng ức chế tụ cầu vàng.
Theo Đông y, bồ kết vị cay mặn, tính hơi ôn, có độc, vào 2 kinh Phế, Đại tràng. Có tác dụng thông khiếu, tiêu đờm, sát trùng; làm cho hắt hơi. Dùng chữa trúng phong, cấm khẩu, tiêu thực, đờm suyễn, sáng mắt, ích tinh.
– Hạt bồ kết: trong các sách cổ nói hạt bồ kết vị cay, tính ôn, không độc. Có tác dụng thông đại tiện, bí kết, chữa mụn nhọt. Dùng liều 5 – 10g dưới dạng thuốc sắc.
– Gai bồ kết: có vị cay, tính ôn không độc. Chữa ác sang, tiêu ung độc, làm thông sữa. Liều dùng 5 – 10g dưới dạng thuốc sắc.
Cả quả, hạt, lá và vỏ cây bồ kết đều có độc tính. Tính độc chỉ cao khi dùng làm thuốc mà không sao hay nướng thật vàng hoặc đốt thành than (dùng sống). Triệu chứng ngộ độc là tức ngực, nóng rát ở cổ, nôn ói; sau đó tiêu chảy, tiêu ra nước có bọt, đau đầu, mệt mỏi, chân tay rã rời.
Hiện nay, một số bệnh viện dùng bồ kết để thông khoan, chữa bí đại tiện và không trung tiện được sau khi mổ, chữa tắc ruột có kết quả, có thể dùng cho trẻ em cả người lớn, thường chỉ sau 5 phút là tháo phân ngay.
Cách làm đơn giản như sau: lấy quả bồ kết, nướng thật vàng, đừng nướng cháy quá hay còn sống, bỏ hột đi rồi tán thành bột nhỏ.
Lấy ống thông, đầu có bôi vaselin hay dầu, rồi chấm vào bột bồ kết, sau đó cho vào hậu môn sâu độ 3 – 4cm, cứ thế làm 3 – 4 lần cho bột vào trong hậu môn, sau 2 – 5 phút bệnh nhân đi ngoài được.
Có trường hợp hậu phẫu không trung tiện được 2 – 5 ngày, bệnh nhân trướng bụng, bí đại trung tiện, nôn mửa liên tục có khi nôn ra máu; làm như trên chỉ sau 2 phút trung tiện và đi ngoài được ngay.